Thở máy xâm nhập là gì? Các công bố khoa học về Thở máy xâm nhập

Thở máy xâm nhập là phương pháp hỗ trợ hô hấp quan trọng, thường dùng trong các đơn vị chăm sóc đặc biệt cho bệnh nhân không thể tự thở do tình trạng y tế nghiêm trọng. Hệ thống này bao gồm máy thở, ống nội khí quản và hệ thống giám sát các thông số sinh tồn. Được áp dụng trong các trường hợp như suy hô hấp cấp và hội chứng ARDS, thở máy giúp cải thiện ôxy hóa máu và giảm công hô hấp nhưng cũng có nguy cơ nhiễm trùng và tổn thương đường thở. Quy trình cai máy thở cần giám sát kỹ càng để đảm bảo thành công.

Thở Máy Xâm Nhập: Một Cái Nhìn Tổng Quan

Thở máy xâm nhập là một trong những phương pháp hỗ trợ hô hấp được sử dụng rộng rãi trong bệnh viện, đặc biệt là trong các đơn vị chăm sóc đặc biệt (ICU). Phương pháp này thường được áp dụng cho bệnh nhân không thể tự thở hoặc thở không hiệu quả do các tình trạng y tế nghiêm trọng.

Khái Niệm Thở Máy Xâm Nhập

Thở máy xâm nhập là quá trình sử dụng một thiết bị, gọi là máy thở, để trợ giúp hoặc thay thế hoàn toàn chức năng hô hấp của bệnh nhân. Thiết bị này cung cấp không khí có kiểm soát, giàu ôxy đến phổi thông qua một ống nội khí quản hoặc ống mở khí quản, được đưa trực tiếp vào khí quản của bệnh nhân.

Các Thành Phần Của Hệ Thống Thở Máy

  • Máy Thở: Thiết bị chính tạo ra luồng không khí và điều chỉnh các thông số như tần số, áp lực và thể tích hô hấp.
  • Ống Nội Khí Quản hoặc Ống Mở Khí Quản: Dụng cụ để đưa không khí từ máy thở vào phổi bệnh nhân.
  • Hệ Thống Giám Sát: Bao gồm các thiết bị đo và theo dõi các thông số sinh tồn của bệnh nhân như áp lực đường thở và nồng độ ôxy trong máu.

Ứng Dụng Lâm Sàng

Thở máy xâm nhập được sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau bao gồm suy hô hấp cấp, hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS), suy tim, sau khi phẫu thuật lớn, và các bệnh lý thần kinh cơ gây suy yếu cơ hô hấp. Mục tiêu là cải thiện thông khí và ôxy hóa máu, giúp giảm công hô hấp của bệnh nhân.

Lợi Ích và Nguy Cơ

Lợi Ích

  • Cải Thiện Ôxy Hóa: Giúp duy trì hoặc nâng cao mức ôxy trong máu.
  • Giảm Công Hô Hấp: Giảm bớt gánh nặng công việc hô hấp cho bệnh nhân.
  • Hỗ Trợ Chức Năng Sống: Đảm bảo sự ổn định của cơ thể trong các tình huống nguy kịch.

Nguy Cơ

  • Nhiễm Trùng: Tăng nguy cơ nhiễm khuẩn, đặc biệt là viêm phổi liên quan đến thở máy.
  • Tổn Thương Đường Thở: Có thể gây tổn thương niêm mạc khí quản và phổi.
  • Phụ Thuộc Máy Thở: Khó khăn trong việc cai máy thở ở một số bệnh nhân.

Quy Trình Cai Máy Thở

Quá trình cai máy thở cũng cần được quản lý cẩn thận, bắt đầu từ việc đánh giá khả năng tự thở của bệnh nhân, sau đó tiến hành thử nghiệm giảm dần sự hỗ trợ của máy thở. Cai máy thở thường là một quá trình phức tạp và cần sự theo dõi cẩn thận.

Kết Luận

Thở máy xâm nhập là một phương pháp quan trọng trong điều trị nhiều trường hợp bệnh lý nặng. Mặc dù có những nguy cơ nhất định, nhưng với sự giám sát và quản lý chặt chẽ, lợi ích mà nó mang lại rất đáng kể trong việc cứu sống và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "thở máy xâm nhập":

Tình trạng dinh dưỡng của người bệnh thở máy tại Khoa hồi sức tích cực - chống độc, Bệnh viện Đa khoa Đống Đa năm 2019
Người bệnh thở máy tại các khoa hồi sức tích cực có nguy cơ cao bị suy dinh dưỡng, tử vong. Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành nhằm đánh giá nguy cơ suy dinh dưỡng cho người bệnh thở máy. Tổng số 40 người từ 42 - 94 tuổi điều trị thở máy tại bệnh viện đa khoa Đống Đa được chọn tham gia nghiên cứu. Các thông số nhân trắc, lâm sàng, cận lâm sàng như hemoglobin, protein và albumin huyết thanh được thu thập. Sử dụng điểm Nutric hiệu chỉnh và các chỉ tiêu cận lâm sàng để đánh giá nguy cơ suy dinh dưỡng. Tỷ lệ nguy cơ theo điểm Nutric hiệu chỉnh là 50%. Tại thời điểm ngày đầu nhập ICU, nồng độ hemoglobin là 118,4 ± 30,2 g/L, nồng độ protein huyết thanh là 61,9 ± 7,5 g/L, albumin huyết thanh là 30,5 ± 5,5. Tỷ lệ thiếu máu là 60%, tỷ lệ suy dinh dưỡng theo protein là 47,5%, theo albumin là 75%. Người bệnh thở máy tại khoa ICU có nguy cơ suy dinh dưỡng cao, cần sàng lọc, đánh giá và can thiệp dinh dưỡng kịp thời.
#Suy dinh dưỡng #thở máy xâm nhập #thở máy không xâm nhập #hồi sức tích cực #điểm dinh dưỡng hiệu chỉnh
GIÁ TRỊ CỦA CHỈ SỐ BÃO HÒA OXY TĨNH MẠCH TRUNG TÂM TRONG DỰ ĐOÁN KHẢ NĂNG THÔI THỞ MÁY Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CƠ TIM CẤP PHẢI THÔNG KHÍ NHÂN TẠO XÂM NHẬP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 506 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá khả năngdự đoán thất bại thôi thở máy (TTM) của chỉ số bão hòa oxy tĩnh mạch trung tâm (ScvO2) ở bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp (NMCT) nặng phải thông khí nhân tạo xâm nhập (TKNTXN) >72 giờ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu tiến hành tại khoa hồi sức tim mạch C1 bệnh viện Bạch Mai trên nhóm bệnh nhân NMCT phải thiết lập TKNTXN có thời gian thở máy >72 giờ, đã đủ tiêu chuẩn TTM và được bác sĩ điều trị quyết định thực hiện thử nghiệm thở tự nhiên (TNTTN). Bệnh nhân sẽ được thu thập các thông tin về lâm sàng, cận lâm sàng đồng thời thực hiện lấy 2 mẫu khí máu tĩnh mạch trung tâm vào 2 thời điểm ngay trước (T1) và phút thứ 30 (T2) của TNTTN. Kết quả: Có 25 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, trong đó có 14 bệnh nhân TTM thành công và 11 bệnh nhân TTM thất bại. ScvO2 và tần số tim ở thời điểm T2 khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 nhóm (69.87±3.9% và 63.84±6.54%; p=0.009; 103.5 (99.5-107) và 111.0 (106-113); p=0.008). Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy mức giảm ScvO2 lớn hơn 4.5% có khả năng dự đoánthất bại của quá trình TTM với độ nhạy là 72.7%, độ đặc hiệu là 85.7%. Kết luận: Sự sụt giảm của chỉ số ScvO2(%) giữa 2 thời điểm ngay trước và phút thứ 30 trong quá trình thực hiện TNTTN có thể dự đoán khả năng thất bại TTM ở bệnh nhân NMCT nặng phải thở máy.
#ScvO2 #Nhồi máu cơ tim cấp #Thông khí nhân tạo xâm nhập
XÂY DỰNG CHUẨN NĂNG LỰC ĐÁNH GIÁ CHĂM SÓC ĐƯỜNG THỞ TRÊN NGƯỜI BỆNH THỞ MÁY XÂM NHẬP QUA ỐNG NỘI KHÍ QUẢN CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌC ĐIỀU DƯỠNG NAM ĐỊNH
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 516 Số 1 - 2022
Mục tiêu nghiên cứu: Xây dựng chuẩn năng lực đánh giá chăm sóc đường thở trên người bệnh thở máy xâm nhập qua ống nội khí quản của sinh viên Đại học Điều dưỡng. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là các tài liệu hướng dẫn quy trình kĩ thuật điều dưỡng, tài liệu liên quan đến đánh giá chăm sóc người bệnh thở máy xâm nhập. Khách thể nghiên cứu là sinh viên Đại học điều dưỡng, các bác sĩ, điều dưỡng là những chuyên gia có kinh nghiệm trong công tác giảng dạy và nghiên cứu về điều dưỡng. Thiết kế nghiên cứu định tính kết hợp định lượng. Kết quả và kết luận: Kết quả cho thấy chuẩn năng lực đánh giá chăm sóc  đường thở trên người bệnh thông khí xâm nhập qua ống nội khí quản gồm 7 chuẩn năng lực với 40 nội dung đánh giá. Giá trị nội dung: Chỉ số I-CVI=1,0; S-CVI=1,0. Tỷ lệ trung bình các mục đánh giá mức độ liên quan giữa 5 chuyên gia =1,0. Giá trị cấu trúc: Hệ số KMO=0,769 thỏa mãn 0,5≤KMO≤1. Kết quả kiểm định Barlett’s =7016,553 với Sig<0,05. Giá trị EFA cho thấy có 7 nhân tố được trích tại Eigenvalues là 1,681 và tổng phương sai trích được là 74,549%>50%. Hệ số tương quan đơn giữa các biến và hệ số  chuyển số nhân tố (factor loading) trong mỗi nhân tố đều >0,5. Không có nhân tố nào cùng lúc tải lên 2 nhân tố, không có sự xáo trộn các nhân tố. Độ tin cậy của từng chuẩn năng lực thành phần và độ tin cậy của cả bộ chuẩn năng lực đều có hệ số  Cronbach’s Anpha tổng >0,7 và các giá trị tương quan biến tổng >0,3
#Chuẩn năng lực #chăm sóc hô hấp #thở máy xâm nhập
HIỆU QUẢ VÀ TÁC DỤNG KHÔNG MONG MUỐN CỦA DỤNG CỤ ANCHORFAST TRONG CỐ ĐỊNH ỐNG NỘI KHÍ QUẢN Ở CÁC BỆNH NHÂN THỞ MÁY
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Nghiên cứu nhằm so sánh hiệu quả cố định ống NKQ bằng dụng cụ AnchorFast và băng dính ở các bệnh nhân thở máy. Đây là nghiên cứu can thiệp ngẫu nhiên có nhóm chứng. Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 60 bệnh nhân được chia thành 2 nhóm ngẫu nhiên, không có bệnh nhân nào được cố định ống NKQ bằng dụng cụ AnchorFast bị di lệch hoặc tuột ống ngoài ý muốn. Trong khi đó tỷ lệ bị di lệch ống NKQ ở nhóm cố định bằng băng dính chiếm là 7/30 (23,3%) và có 1/30 (3,3%) bệnh nhân bị tuột ống ngoài ý muốn. Tỉ lệ loét liên quan đến cố định bằng băng dính là 10/30 (33,3%), cố định bằng dụng cụ AnchorFast là 4/30 (13,3) %. Trong đó, vị trí loét trong AnchorFast gặp ở 2 vị trí là lưỡi: 3/30 (10%) và môi: 1/30 (3,33%), chủ yếu ở giai đoan I: 3/30 (10%) và giai đoạn II: 1/30 (3,33%). Ở nhóm dùng băng dính, vị trí loét tại 2 vị trí lưỡi: 4/30 (13,33%) và môi: 6/30 (20%), giai đoạn loét I: 7/30 (23,33%), giai đoạn II: 3/30 (10%). Nghiên cứu cho thấy hiệu quả cố định ống NKQ ở nhóm bệnh nhân sử dụng AnchorFast cao hơn nhóm sử dụng băng dính về độ di lệch ống và tuột ống ngoài ý muốn. Tỷ lệ bị loét ở nhóm sử dụng AnchorFast thấp hơn nhóm cố định bằng băng dính.
#AnchorFast #cố định ống nội khí quản #băng dính #bệnh nhân thở máy xâm nhập
GIÁ TRỊ CỦA THANG ĐIỂM HACOR ĐỂ DỰ ĐOÁN KẾT QUẢ CỦA THỞ MÁY KHÔNG XÂM NHẬP TRÊN BỆNH NHÂN ĐỢT CẤP COPD
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá giá trị thang điểm HACOR trong dự đoán kết quả của thở máy không xâm nhập (TMKXN) ở bệnh nhân đợt cấp COPD. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu đánh giá giá trị thang điểm HACOR để dự đoán kết quả của TMKXN trên 71 bệnh nhân đợt cấp COPD điều trị tại khoa Cấp cứu bệnh viện Bạch Mai từ tháng 01/2019 đến tháng 7/2020. Thang điểm gồm các thông số điểm Glasgow, nhịp tim, nhịp thở, pH máu và chỉ số P/F. Cao nhất là 27 điểm và thấp nhất 0 điểm được thu thập tại thời điểm trước thở máy và sau 3 giờ TMKXN. Khi bệnh nhân phải đặt ống NKQ thì TMKXN được coi là thất bại. Kết quả: Nghiên cứu trên 71 bệnh nhân đợt cấp COPD có chỉ định TMKXN cho thấy tỷ lệ thất bại TMKXN là 22,5% được chia thành 2 nhóm thất bại trước 3 giờ và sau 3 giờ thở máy. Tại thời điềm trước thở máy, thang điểm HACOR có khả năng dự đoán tốt thất bại sớm của TMKXN với chỉ số AUC là 0,82, cho thấy khả năng dự đoán tốt về thất bại của TMKXN. Sử dụng điểm cutoff là 5, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương tính, giá trị dự đoán âm tính chẩn đoán thất bại TMKXN tương ứng là 75; 80,9; 79 và 70,1%. Ở những bệnh nhân TMKXN thất bại sau 3 giờ, HACOR có khả năng dự đoán trung bình với AUC là 0,77. Với điểm cutoff là 6, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương tính, giá trị dự đoán âm tính chẩn đoán thất bại TMKXN tương ứng là 56,2; 92,7; 69 và 88%. Kết luận: Thang điểm HACOR có khả năng dự đoán tốt thất bại sớm (<3giờ) của TMKXN ở bệnh nhân đợt cấp COPD.
#thở máy không xâm nhập #HACOR #đợt cấp COPD
Thuật Toán Học Tập Dựa Trên Mạng Nơ-ron Đối Với Các Hệ Thống Phát Hiện Xâm Nhập Dịch bởi AI
Wireless Personal Communications - Tập 97 - Trang 3097-3112 - 2017
Gần đây, các hệ thống phát hiện xâm nhập (IDS) đã được giới thiệu nhằm bảo vệ mạng một cách hiệu quả. Việc sử dụng mạng nơ-ron và học máy trong việc phát hiện và phân loại các xâm nhập là những giải pháp thay thế mạnh mẽ. Trong bài báo nghiên cứu này, cả hai thuật toán hồi tiếp lan truyền (BP) dựa trên Đạo hàm gradient với động lực (GDM) và Đạo hàm gradient với động lực và tăng cường thích ứng (GDM/AG) được sử dụng để đào tạo mạng nơ-ron hoạt động như các IDS. Để kiểm tra tính hiệu quả của hai phương pháp học đã đề xuất, một hệ thống IDS dựa trên mạng nơ-ron được xây dựng bằng cách sử dụng các thuật toán học đã đề xuất. Tính hiệu quả của cả hai thuật toán được kiểm tra dựa trên tốc độ hội tụ để đạt được việc học của hệ thống, và thời gian học đã trôi qua bằng cách sử dụng các thiết lập khác nhau về tham số của mạng nơ-ron. Kết quả cho thấy thuật toán học BP dựa trên GDM/AG vượt trội hơn so với thuật toán học BP dựa trên GDM.
#Hệ thống phát hiện xâm nhập #mạng nơ-ron #thuật toán hồi tiếp lan truyền #học máy #hiệu quả hội tụ.
Đặc điểm lâm sàng và kết quả điều trị của bệnh nhân COVID-19 nặng đang thở máy nhận liệu pháp kháng thể đối kháng thụ thể interleukin-6 và corticosteroid: một báo cáo sơ bộ từ một cơ sở dữ liệu quốc tế Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 26 - Trang 1-12 - 2021
Các thuốc đối kháng thụ thể interleukin-6 (IL-6RAs) và corticosteroid đang nổi lên như các liệu pháp điều chỉnh miễn dịch cho bệnh viêm phổi cấp tính do coronavirus (COVID-19) thể nặng. Trong báo cáo sơ bộ này, chúng tôi nhằm mục đích mô tả dịch tễ học, các đặc điểm lâm sàng và kết quả của bệnh nhân COVID-19 nặng, người lớn, có chỉ định thở máy xâm nhập (iMV) và nhận điều trị IL-6RA cùng với corticosteroid trong 11 tháng qua. Nghiên cứu đa trung tâm, quốc tế này có nguồn gốc từ cơ sở dữ liệu nghiên cứu Bệnh nhiễm virus và Bệnh đường hô hấp Đại học và được thực hiện thông qua Mạng lưới Khám phá, Hiệp hội Y học Chăm sóc Cấp tính. Dữ liệu được thu thập từ ngày 01 tháng 03 năm 2020 đến 10 tháng 01 năm 2021. Trong số 860 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn, 589 người nhận corticosteroid, 170 người nhận IL-6RAs, và 101 người nhận kết hợp. Bệnh nhân nhận IL-6RAs có độ tuổi trẻ hơn (tuổi trung vị 57,5 tuổi so với 61,1 và 61,8 tuổi trong các nhóm corticosteroid và nhóm kết hợp, tương ứng). Mức độ protein phản ứng C trung vị là > 75 mg/L, cho thấy một kiểu hình viêm gia tăng. Liều corticosteroid hàng ngày trung vị là 7,5 mg dexamethasone hoặc tương đương (khoảng tứ phân: 6–14 mg); 80,8% và 19,2% nhận liều thấp và liều cao corticosteroid, tương ứng. Trong số những bệnh nhân nhận IL-6RAs, phần lớn nhận một liều tocilizumab và sarilumab (liều dao động từ 600–800 mg cho tocilizumab và 200–400 mg cho sarilumab). Liên quan đến thời gian sử dụng thuốc, chúng tôi quan sát thấy rằng việc sử dụng corticosteroid và IL-6RA vào ngày thứ 0 khi nhập ICU chỉ đạt 55,6% và 39,5%, tương ứng. Đến ngày thứ 28, khi so với việc chỉ sử dụng corticosteroid, sử dụng IL-6RA có liên quan đến tỷ lệ sự cố đã điều chỉnh (aIRR) là 1,12 (khoảng tin cậy [CI] 95% 0,88, 1,4) cho số ngày không thở máy, trong khi việc điều trị kết hợp có liên quan đến aIRR là 0,83 (95% CI 0,6, 1,14). Sử dụng IL-6RA có liên quan đến tỷ lệ odds đã điều chỉnh (aOR) là 0,68 (95% CI 0,44, 1,07) cho tỷ lệ tử vong 28 ngày, trong khi liệu pháp kết hợp có liên quan đến aOR là 1,07 (95% CI 0,67, 1,70). Biến chứng gan cao hơn trong nhóm IL-6RA (p = 0,04), trong khi tỷ lệ nhiễm trùng huyết không khác nhau giữa các nhóm. Sự không đồng nhất được quan sát thấy giữa các mô hình sử dụng trong cơ sở dữ liệu (tức là, thời điểm sử dụng corticosteroid và IL-6RA) và các chứng cứ mới từ các thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát gần đây cũng như các khuyến nghị hướng dẫn. Những dữ liệu này sẽ giúp chúng tôi xác định các lĩnh vực cần cải thiện trong các mô hình kê đơn và nâng cao hiểu biết của chúng tôi về tính an toàn của IL-6RA với các phác đồ corticosteroid khác nhau. Cần có thêm nghiên cứu để đánh giá các yếu tố gây ra sự biến thiên cấp bệnh viện và tác động của chúng đến các kết quả lâm sàng. Đăng ký thử nghiệm ClinicalTrials.gov: NCT04486521. Đăng ký vào tháng 7 năm 2020
#COVID-19 #thở máy xâm nhập #thuốc đối kháng thụ thể interleukin-6 #corticosteroid #điều chỉnh miễn dịch
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THỞ MÁY XÂM NHẬP Ở TRẺ SƠ SINH VÀ YẾU TỐ LIÊN QUAN TỪ BỆNH LÝ MẸ TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị thở máy ở trẻ sơ sinh điều trị tại khoa Nhi Bệnh viện Bạch Mai, xác định yếu tố liên quan từ bệnh lý mẹ.Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả 51 trẻ sơ sinh điều trị thở máy xâm nhập từ 01/6/2019-31/5/2020.Kết quả: Sơ sinh phải thở máy xâm nhập 15,1% trong tổng số sơ sinh bị suy hô hấp, tỷ lệ trẻ trai/trẻ gái là 2/1. Nhóm sơ sinh thở máy mẹ có bệnh lý chiếm 68,6% cao hơn nhóm mẹ không có bệnh lý 31,4%. Tỷ lệ trẻ sơ sinh cực kỳ non tháng; rất non tháng, non tháng và đủ tháng phải thở máy lần lượt là 15,7%; 47,1%; 29,4%; 7,8%. Cân nặng trung bình nhóm sơ sinh mẹ có bệnh là 1,51±0,71 thấp hơn nhóm mẹ không có bệnh là 1,88±1,04, nhóm cân nặng thấp <1,5kg chiếm 60,8 %. Thời gian thở máy xâm nhập trung bình của nhóm sơ sinh mẹ có bệnh 8,5±7,6 ngày,nhóm mẹ không có bệnh 4,1±3,3 ngày. Tỷ lệ thở máy thành công ở nhóm cân nặng <1,0kg là 75%. Nhóm sơ sinh mẹ không có bệnh có tỷ lệ điều trị thành công 93,4% cao hơn so với nhóm sơ sinh mẹ có bệnh 88,6%. Tỷ lệ tử vong sơ sinh thở máy xâm nhập 9,8%.Kết luận: Trẻ sinh ra từ mẹ có bệnh có thời gian thở máy xâm nhập trung bình cao hơn và tỉ lệ thành công thấp hơn so với nhóm mẹ không có bệnh.
#thở máy xâm nhập #thở máy sơ sinh #thở máy mẹ có bệnh lý
10. So sánh một số chỉ số trao đổi khí đo bằng phương pháp không xâm lấn với các chỉ số khí máu động mạch ở bệnh nhân thông khí nhân tạo xâm nhập
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 180 Số 7 - Trang 79-85 - 2024
Nghiên cứu nhằm đánh giá tương quan của các thông số khí máu trên đo khí máu động mạch không xâm lấn và xâm lấn trên bệnh nhân thông khí nhân tạo xâm nhập. Nghiên cứu mô tả từ tháng 06/2023 đến tháng 9/2023. Nghiên cứu ghi nhận 50 cặp biến cùng thời điểm trên 35 bệnh nhân thở máy xâm nhập tại Khoa Cấp cứu và Hồi sức tích cực của Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Có mối tương quan tốt giữa gPaO2, O2 Deficit và EtCO2 từ phép đo không xâm lấn khi so sánh với PaO2, AaDO2 và PaCO2 khí máu động mạch với r là 0,83; 0,98 và 0,71. Phân tích Bland - Altman về các thông số gPaO2, EtCO2 trên khí máu không xâm lấn so với PaO2, PaCO2 của khí máu động mạch xâm lấn, có sự tương đồng tốt với Mean bias lần lượt là -1,14 và 5,26; phần trăm sai số là 26,23% và 31,25%. Nghiên cứu cho thấy phương pháp đo khí máu không xâm lấn này có sự tương đồng và tương quan về chỉ số phân áp O2, phân áp CO2 so với đo bằng phương pháp xâm lấn ở bệnh nhân thở máy xâm nhập.
#Khí máu không xâm lấn #Khí máu động mạch #Suy hô hấp #Thở máy xâm nhập
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG CỦA BỆNH NHÂN NHẬP VIỆN VÌ ĐỢT CẤP BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH CÓ CHỈ ĐỊNH THỞ MÁY XÂM NHẬP TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 78 - Trang 162-167 - 2024
Đặt vấn đề: Đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là biến cố quan trọng trong tiến trình của bệnh. Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là một bệnh lý phức tạp không chỉ gây ảnh hưởng chủ yếu ở phổi mà nó còn là nguyên nhân của các biểu hiện toàn thân khác. Các bệnh lý này làm nặng thêm các triệu chứng của bệnh, là một trong những nguyên nhân khởi phát đợt cấp, tăng tỷ lệ tử vong cũng như tỷ lệ nhập viện của bệnh nhân COPD. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân nhập viện vì đợt COPD có thở máy xâm nhập tại bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả thiết kế cắt ngang tiến hành trên 66 bệnh nhân COPD được chẩn đoán đợt cấp BPTNMT và được đặt NKQ tại bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên từ 10/2022 đến 7/2023. Kết quả: 39,4% bệnh nhân khi vào viện ở trạng thái kích thích; 15,2% hôn mê; 90,0% có ho; 75,8% có ran ngáy, 72,7% có ran rít; 89,4% có o kéo cơ hô hấp; 66,7% phân loại D theo GOLD; Bạch cầu cao hơn mức bình thường; Khí máu động mạch thể hiện tình trạng toan hô hấp cấp với pH trung bình là 7,26±0,13; với 78,8% có tăng PaCO2 và 77,3% giảm PaO2; X-quang phổi: chủ yếu bệnh nhân có tổn thương đám mờ dạng viêm chiếm 43,9%, tiếp đến là hình ảnh phổi bẩn và hình ảnh tràn khí màng phổi chiếm 16,7%. Kết luận: Nghiên cứu nhằm giúp quản lý và điều trị để làm giảm và xử trí đợt cấp trên bệnh nhân COPD có thở máy xâm nhập tại Bệnh viện Trung Ương Thái Nguyên.
#Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính #đợt cấp COPD #thở máy xâm nhập
Tổng số: 12   
  • 1
  • 2